Ngày thương binh liệt sĩ (ngày 27 tháng 7) là một ngày lễ kỷ niệm được tổ chức hàng năm nhằm tưởng niệm về những công lao to lớn của các thương binh, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến giành độc lập, bảo vệ tổ quốc. Ngày lễ này được ghi nhận và thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn, Đền ơn đáp nghĩa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nhằm tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với những người có công với Cách mạng từ trước đến nay.
Lịch sử ra đời
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước CHXHCN Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần "... thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ" quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp nhiều chiến sĩ, đồng bào ta đã bị thương và ngã xuống hi sinh một phần xương máu trên các chiến trường.
Nỗi đau bao trùm lên toàn dân tộc, nhiều gia đình đã mất đi cả chồng và các con. Nhiều người vợ trẻ chỉ hưởng hạnh phúc vẻn vẹn trong một ngày. Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình các chiến sĩ, đồng bào, Chính quyền Việt Nam đã xúc tiến vận động thành lập một tổ chức lấy tên gọi là Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đổi tên là Hội giúp binh sĩ bị thương) được thành lập ở Thuận Hóa, Bình Trị Thiên, ở Hà Nội và nhiều nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh được mời làm hội trưởng danh dự của Hội giúp binh sĩ tử nạn.
Ngày 17/11/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã có buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho các chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động "Mùa đông binh sĩ" trong cả nước để giúp chiến sĩ trong mùa đông giá rét. Tại buổi quyên góp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sĩ.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946, số người bị thương vong tăng lên. Nhân dân và chiến sỹ đời sống vô cùng khó khăn. Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến công tác thương binh liệt sỹ nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân và chiến sỹ.
Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) nay là tỉnh Thái Nguyên. Nội dung cuộc họp là thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh, liệt sỹ.
Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày "Thương binh toàn quốc". Đây là cuộc mít tinh quan trọng với 2000 người tham gia tại Thái Nguyên. Tại đây Ban Tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Hàng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tháng 7/1954, Đảng và Nhà nước ta càng quan tâm và giải quyết những vấn đề chiến sĩ, gia đình liệt sỹ cũng như công tác thương binh.
Từ tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi "Ngày Thương binh toàn quốc" thành "Ngày Thương binh, liệt sĩ" để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 08/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hằng năm chính thức trở thành "Ngày Thương binh, liệt sĩ" của cả nước.
Ý nghĩa của ngày thương binh, liệt sỹ 27/7
Quý trọng và biết ơn những người hy sinh vì độc lập cho dân tộc, cho Tổ quốc, nhân dân được ấm no, hạnh phúc là truyền thống của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta. Qua đó, phát huy, giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tin tưởng, kiên định mục tiêu mà Đảng và Bác hồ đã lựa chọn: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Chăm lo cho các bệnh binh, thương binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với đất nước với dân tộc là vinh dự, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hôm nay và mai sau.
Đặc biệt, cần chú trọng tuyên truyền, giáo dục đến mọi người đặc biệt thế hệ trẻ về những cống hiến, hy sinh mất mát của bệnh binh, thương binh, liệt sỹ và gia đình của họ để thế hệ trẻ biết trân quý những thành quả hôm nay. Từ đó, biến lòng biết ơn thành những hành động cụ thể, thực hiện tốt “đền ơn, đáp nghĩa”.
Nguyễn M.H (Sưu tầm, biên soạn)